Như chúng ta đã biết cây hoa mai thường chỉ xuất hiện ở dịp tết xuân về. Vậy các bạn có hiểu biết gì về cây hoa mai không? Đa phần sẽ ko biết. Để hiểu rõ hơn về cây hoa mai chũng ta cùng nhau Nhận định qua bài viết ngay sau đây nhé!
Vào mùa xuân có không ít loài hoa đua nhau sôi động đủ màu sắc bên những chồi non ú nụ, với những chiếc lá xanh mướt. Mỗi loài hoa có một hương sắc đẹp riêng, tạo nên một vẻ đẹp rất tiêng của mùa xuân. Mùa xuân cũng là vào dịp tết, những cây tượng trưng cho ngày tết chính là cây hoa mai, hoa đào,… làm ko khí thêm rét mướt và sôi động hơn. Cùng trang yêu mai vàng Nhận định thêm về các thông báo này nhé.
Những điều cần biết về cây hoa mai
Như chúng ta đã biết cây hoa mai thường chỉ xuất hiện ở dịp tết xuân về. Vậy các bạn có hiểu biết gì về cây hoa mai không? Đa phần sẽ không biết. Để hiểu rõ hơn về cây hoa mai chũng ta cùng nhau Tìm hiểu qua bài viết tiếp sau đây nhé!
Tổng quan về cây Hoa Mai
thông báo cơ bản về cây hoa mai
Cây mai thuộc họ Ochnaceae, có tên công nghệ Ochna integerima còn được gọi là cây hoàng mai, rất được ưa thích vào ngày Tết cổ truyền ở miền Nam Việt Nam.
Tại Việt Nam, loài này phân bố trùng hợp phổ thông nhất tại những khu rừng thuộc dãy Trường Sơn và các tỉnh giấc trong khoảng Quảng Nam, Đà Nẵng cho đến Khánh Hòa. Loài hoa này cũng có phổ thông tại các vùng núi ở đồng bằng sông Cửu Long, và tại cao nguyên cũng có, song số lượng ít hơn.
Ngoài thiên nhiên, cây mai tự rụng lá vào mùa Đông và ra hoa vào mùa Xuân.
Là cây đa niên, có thể sống trên một trăm năm, gốc lớn rễ lồi lõm, thân xù xì, cành nhánh nhiều, lá mọc xen. Ngoài tự nhiên, cây mai tự rụng lá vào mùa Đông và ra hoa vào mùa Xuân. Bởi thế, tổ sư chúng ta đã lảy hết lá vào tháng chạp âm lịch, để kích thích cho cây mai ra hoa rộ vào dịp tết Nguyên đán.
Đặc điểm của cây hoa mai
Có thân cứng, cành giòn, lá nhỏ, hoa to và phẳng, lâu tàn. Mai có dáng vẻ thanh cao. Thân cây mềm mại, lá xanh biếc dịu dàng, hoa tươi rực rỡ…
cấu tạo của cây hoa mai
1. Rễ cây mai vàng
Bộ rễ mai vàng có thể đâm sâu 2 – 3 m. Sự phân bố của bộ rễ phụ thuộc vào tính chất đất, mực nước ngầm nơi trồng, hình thức nhân giống như gieo hạt, chiết cành, ghép và điều kiện kỹ thuật chăm sóc.
hai. Thân cây mai vàng
Là cây thân gỗ cao to nếu để mọc và sinh trưởng tự do, cây mọc từ hạt có thể cao đến 20 – 30 m, tán lá thưa.
3. Lá cây mai vàng
Lá đơn, mọc so le, phiến lá hình trứng thon thả dài, mặt dưới màu khá ánh vàng.
4. Hoa mai vàng
Hoa lưỡng tính mọc thành chùm. Hoa mai thường mọc ra từ nách lá, thoạt đầu là một hoa lớn, gọi là hoa cái, có vỏ lụa (vỏ trấu) bọc bên ngoài.
khi vỏ lụa bung ra, thì xuất hiện một chùm hoa con, trong khoảng một nụ tới mười nụ, phát triển rất nhanh, độ bảy ngày sau là nở.Thường hoa nở 3 ngày thì tàn. Ngày thứ nhất, 5 cánh và chùm nhụy xoè thẳng ra rất đẹp. Ngày thứ hai, 5 cánh vảnh lên và chùm nhụy dụm lại. Qua tới ngày thứ ba, 5 cánh bắt đầu rơi lả tả theo chiều gió, hoa tàn
5. Quả mai vàng
Sau khi tàn, hoa nào đậu thì bầu noãn phình lớn lên và kết hạt.
xuất xứ, ý nghĩa của hoa mai
xuất xứ của hoa mai
Cây mai có xuất xứ từ Trung Quốc. Theo sách “Trân hương bảo ngự” của Phí Cung Ấn, đời Minh chép rằng: “Đắc Kỷ ái lãm hàn mai, Trụ tằng ngự tuyết đồng lãm chi”. Nghĩa là Đắc Kỷ thích ngắm hoa mai trong giá lạnh. Trụ vương thường đội tuyết cộng ngấm. Tương tự, cách đây đã hơn 3000 năm, cây mai đã có mặt trên quốc gia Trung Quốc.Người Trung Quốc vốn nặng tình với mai trong khoảng lâu lắm và xem Mai, Tùng, Cúc thuộc hàng ngũ “Tuế tàn tam hữu”. Ý đề cập chịu được tuyết lạnh chẳng khác bật trượng phu khí tiết vững vàng, chịu được mọi nghịch cảnh và ko bao giờ chết thật phục bạo quyền.
Người Trung Quốc vốn nặng tình với mai trong khoảng lâu lắm và xem Mai, Tùng, Cúc thuộc hàng ngũ “Tuế tàn tam hữu”. Ý đề cập chịu được tuyết lạnh chẳng khác bật trượng phu khí tiết vững vàng, chịu được mọi nghịch cảnh và không bao giờ chết thật phục bạo quyền.
Mai có xuất xứ trong khoảng cây hoang dại, có khả năng thích nghi tốt với điều kiện khí hậu nhiệt đới.
Yêu mai, người Trung Quốc xem hoa mai là quốc hoa, cũng như hoa đào là quốc hoa của người Nhật, chắc hẳn Do đó mà họ đặt tên cho mai tương đối cầu kỳ. Theo sách “Mai phổ” thì loại hoa mai có sáu cánh tròn đẹp như hoa thuỷ tiên nên gọi là “Thủy tiên mai”, hoa có từng cặp gọi là “Uyên ương mai”, gọi hoa màu đỏ hồng gọi là “Yên chi mai”, mai có đài hoa màu xanh đậm gọi là “Lục ngạc mai” rồi “Hạc đình mai”…nhưng tựu chung cũng nằm trong 4 loại chính: Bạch mai: Sắc trắng như tuyết; Hồng mai: Sắc hồng như máu; Thanh mai: Sắc vàng tươi hay vàng đậm; còn có Mặc mai: màu đen hay tím đen (loại này không thấy trồng phổ biến).
Mai có nguồn gốc trong khoảng cây hoang dại, có khả năng thích nghi tốt với điều kiện khí hậu nhiệt đới, đặc trưng với khí hậu miền Nam. Cây mai sinh trưởng và lớn mạnh mạnh, có tuổi thọ cao và nếu được săn sóc chu đáo sẽ cho hoa phổ biến và có màu dung nhan. Cây mai mỗi năm rụng lá một lần vào cuối mùa Đông (tháng 1 – tháng 2 Dương lịch) và nở hoa vào đầu mùa Xuân, chỉ riêng mai Tứ Qúy là nở hoa nói quanh năm.
Đã trong khoảng lâu hoa mai đã được mọi người chiêm ngưỡng, biểu trưng cho những gì đẹp đẽ thanh lịch. Mỗi khi hoa mai nở rộ là mỗi lúc lòng người hớn hở nao nao, là biểu hiện mùa xuân đang về. Hoa mai và ngày xuân là một biểu tượng không thể thiếu cho phần đông các sắc dân ngụ cư trong vùng Á Châu. Lúc nhắc tới ngày xuân, người ta liên tưởng tới ngày đầu năm, thật vậy, ngày Tết Nguyên Đán mà thiếu vắng bóng vía hoa mai là một điều thiếu sót to mà mọi người trong chúng ta đều thản nhiên xác nhận. Đã từ lâu hoa mai đã đóng một vai trò quan trọng trong văn học Á Đông, đấy là nguồn cảm hứng của biết bao danh nhân.
Ý nghĩa của hoa mai
Miền Bắc có hoà đào thì miền Nam có hoa mai. Màu vàng của hoa mai trong khoảng lâu được xem là màu biểu trưng cho sự giàu sang, phú quý. Người ta chưng hoa mai vào dịp Tết với ước mong một năm mới phát tài, sang giàu. Theo quan niệm của phổ biến người, nhà nào có hoa mai nở càng nhiều cánh thì nhà ấy càng may mắn và giàu có trong năm mới.
Hoa mai tượng trưng cho phẩm đức kiên nhẫn và đức hy sinh cao cả, sự bền bỉ của người Việt Nam.
Cây mai có rễ cắm sâu vào lòng đất, không bị gục ngã trước gió bão. Nó cũng có thể chịu cất được mọi loại thời tiết, kể cả khắc nghiệt. Do đó mà mai còn biểu tượng cho phẩm đức kiên nhẫn và đức hy sinh cao cả, sự dẻo dai của người Việt Nam khái quát. Không chỉ có vậy, mai còn là tượng trưng cho sự cao thượng, quyền quý.
Những đoá mai vàng nợ rộ trong tiết xuân còn cho thấy niềm vui, niềm hân hoan, hạnh phúc, tình yêu thương, tinh thần đoàn kết và gắn bó mọi người lại với nhau.
Vậy là bây giờ bạn đã hiểu được ý nghĩa của hoa mai và hoa đào trong ngày tết rồi ấy. Chúc các bạn có một cái tết thật vui và ấm êm bên gia đình.
Phân loại các loại hoa mai tại Việt Nam
Cách phân loại 1
Trên toàn cầu có hơn 20 loại mai khác nhau. Riêng tại Việt Nam, có khoảng 8 loại, gồm: Bạch Mai, Hồng Mai, Hoàng Mai, Nhất Chi Mai, Mai Tứ Quý, Mai Chiếu Thủy, Song Mai.
Ở Việt Nam có 8 loại hoa mai.
Song mai: Hoa màu trắng nuột, ra hoa và kết trái từng đôi nên được gọi là song mai.
Mai mơ: Còn gọi là Hạnh mai, thô tục gọi là cây mơ. Tên kỹ thuật là Prunes Mume (Armeniaca Mume), xếp vào họ Rosaceae, có khoảng 300 loại. Cây mai mơ cao trong khoảng 6 – 9m, lá rộng tròn và dài, đầu nhọn, có răng cưa. Hoa nở vào đầu xuân, sau đó mới nẩy lá, đài hoa đỏ tía hoặc xanh thẫm, hoa thường có 5 cánh với 2 sắc: trắng và hồng. Hoa mai mơ sắc trắng còn được gọi là Lục Ngạc Mai. Hoa kết thành quả, quả lúc chưa chín có màu xanh, khi quả chín có màu vàng. Trái có vị chua ngọt, mùi thơm phảng phất rất lâu.
Tại miền Nam, vì thuộc khí hậu nhiệt đới và sắp đường xích đạo hơn so với miền Bắc, ngày Tết luôn rơi vào lúc thời tiết hot, nên ta có thể tậu thấy các loại mai như mai Chiếu Thủy, Nhất chi mai, mai Tứ Quý, Bạch mai, Hoàng mai, Nam mai và một loại mới, ấy là mai trắng Miến Điện.
Mai chiếu thủy: là cây đa niên, gốc lớn, cành nhánh đa dạng. Cao khoảng 1,5m. Lá dài, nhỏ, mọc thành đôi. Hoa nhỏ 5 cánh, mọc thành chùm nhỏ lí tí, màu trắng tuyền, có mùi thơm dịu dàng, dễ chịu. Cuống hoa dưới xoành xoạch hướng xuống đất nên được gọi là mai Chiếu Thủy.
Nhất chi mai: hoa màu trắng pha hồng, thường gặp ở miền Nam.
Mai tứ quý: là loại mai có 5 cánh màu vàng tươi, tên kỹ thuật là Ochna Astropurpur. Hoa không đa dạng, nhưng tự trổ, không cần trảy lá trước. Loài hoa này được coi là một loại mai kiểng. Vì loài hoa này nở vòng vèo năm, mùa nào cùng có thể trổ hoa nên còn được gọi là mai Tứ Quý. Không những thế còn có tên gọi khác là “Mai đỏ”, xuất xứ chính là lúc hoa tàn 5 cánh hoa vàng rụng hết và 5 đài hoa bên dưới liền biến thành đỏ sẫm. Các đài hoa thay vì xòe ra như trước lúc tàn, lại úp vào ôm lấy nhụy, trông như đóa hoa búp vậy. Nhụy hoa bên trong kết hạt, từ màu xanh lúc còn non đổi sang màu đen khi già, lớn dần, đẩy 5 đài hoa lại nở bung ra lần thứ 2 như một đóa hoa mai màu đỏ, chính vì lẽ đấy mà mai Tứ Quý còn được gọi là Nhị Độ mai (hoa nở 2 lần, trước vàng, sau đỏ).
Bạch mai: cây cao 15m, hoa có mùi thơm dễ chiu như mai Chiếu Thủy. Hoa bạch mai có dáng như hoa sứ, màu trong trắng biểu trưng cho sự thuần khiết, có trong khoảng 6 tới 8 cánh tròn to, dày, nhụy vàng, có mùi thơm thoang thoảng hòa lẫn sương đêm, thuộc loại hoa thảng hoặc. Mai trắng rất yếu, khó săn sóc và nuôi dưỡng. Có nhiều ở vùng núi Bà Đen – Tây Ninh, hay ở Bến Tre, Hà Tiên.
Bạch mai.
Nam mai: là một loại mai trắng có không ít ở vùng “Nam kỳ lục tỉnh”, ấy chính là cây Mù U. Cây mù u có tên kỹ thuật là Ochrocarpus samensis,thuộc họ Guttiferae (măng cụt). Cây mù u thân mộc, lá mù u to bản, dày, kích thước bằng bàn tay người to. Trái mù u tròn, lớn cỡ ngón chân cái, ko ăn được. Hột mù u ép làm dầu thắp đèn (nhiều khói, ít sáng). Hoa mù u 5 cánh trắng và to như hoa Bạch mai.
Hoàng mai: mai vàng, còn được gọi là Lạp mai. Lạp là sáp ong, được ví với màu vàng tươi nhuận của hoa mai. Còn hiểu cách khác thì Lạp nguyệt là tháng chạp, vậy Lạp mai là loài hoa mai chỉ nở một lần trong năm vào cuối tháng chạp (tháng 12 âm lịch). Tại Việt Nam, nơi có rộng rãi mai vàng nhất là trong những khu rừng thuộc dãy Trường Sơn, thuộc các thức giấc trong khoảng Quảng Nam, Đà Nẵng đến Khánh Hòa. Rừng ở các tỉnh giấc cao nguyên cũng có, nhưng ít hơn.
Mai vàng mọc trên rừng còn gọi là “Mai núi”. Mai núi do phải chen mua đất sống với những cây khác ở địa thế khắc nghiệt trong cuộc sinh tồn nên dáng cây có vẻ đẹp đặc trưng. Hoa lại có phổ quát cánh. Có hoa có từ 12 tới 18 cánh.
Một loại mai vàng khác mọc ở triền cát, rừng ven biển được gọi là “Mai Động”. Dáng cây mai động suông, tròn, hoa ra chi chít, cánh nhỏ. Các tỉnh miền Trung từ Quảng Bình, Quảng Trị đổ vào, kéo dài đến tận đồng Nai, Tây Ninh, nơi nào cũng có mai vàng.
Cách phân loại hai
1. Mai năm cánh
Loại mai vàng mọc phổ biến tại miền Trung (Từ Đà Nẵng, Quảng Nam cho tới Khánh Hòa) và trên dãy trường Sơn, trong những khu rừng già. Đây là loại mai năm cánh bỗng dưng, hoa nhỏ, thân vừa và nở hoa ko phổ quát và rậm như một vài loài mai khác mà nở thưa thớt. Nhưng nếu như lạc vào rừng mai này vào mùa xuân thì chúng ta sẽ thấy sắc hoa vàng trẻ ranh cả một khu rừng, cả một triền núi và xác hoa rơi có khi vàng cả một dòng suối. Hương thơm ngập tràn và lan tỏa cả một vùng rộng to. Ở 1 số ngọn núi thuộc đồng bằng sông Cửu Long như tại vùng Thất sơn (bảy núi) cũng có loại mai này nhưng ít hơn và rải rác không tập kết.
Mai 5 cánh là loại mai vàng mọc phổ thông tại miền Trung và trên dãy trường Sơn, trong những khu rừng già.
==== >> các bạn có thể xem thêm: tiến trình kỹ thuật chăm sóc mai vàng vào tháng 10 âm lịch
2. Mai núi
Cũng là một loại mai rừng nhưng có số lượng cánh rộng rãi hơn từ 12 cho đến 18 cánh, có lúc còn Không chỉ có thế. Mai này mọc trên những núi đá khô khốc và sống chính yếu bằng khá sương, nước mưa và nước ngầm trong lòng đất cùng với khí hậu ẩm thấp của miền núi. Loài mai này thường xuất hiện nhiều tại các vùng núi thuộc Tây Nguyên và nước bạn Campuchia.
3. Mai chủy
Cũng là một loại mai rừng nhưng thân cây rất to, hoa phổ thông, lá rộng, xanh bóng và có hình răng cưa. Loại mai này có hoa mọc thành chùm rất đẹp nên gọi là mai chủy (chủy có nghĩa là chùm, quần thể, quây quần lại, đặc nghẹt).
4. Mai động, mai sẻ
Là một loại mai chuyên mọc ở những vùng cát trắng gần biển. Loại mai này có thân suôn thẳng và tròn và trổ bông loáng thoáng. Nếu chúng trổ năm cánh thì gọi là mai sẻ, còn nếu có hơn năm cánh thì đúng là loa mai động. Mai động và mai sẻ mọc tản mạn trong khoảng các tỉnh trong khoảng Quảng Bình, Quàng Trị vào tận các vùng duyên hải thuộc miền trung và có lúc thấy chúng ở các vùng đồi cát trắng thuộc miền nam như Tây Ninh, Đồng Nai, Biên Hòa v..v..
5. Mai tầm gửi, mai tỳ bà, mai vương
Là một loại mai sống nhờ trên thân cây khác, nhất là các loại cây cổ thụ lớn lớn, chúng sống bám vào thân cây, một phần hút chất dinh dưỡng từ đất, một phần hút hoạt chất từ cây mà chúng bám vào. Ko giống các loại tầm gửi khác chỉ bám trên thân cây khác, mai tầm gởi sống phân nửa dựa vào bộ rễ bám vào lòng đất của nó. Mai tầm gởi có thân ghồ ghề, cứng và xù xì cùng với những khối u kì dị. Chồi và tược cũng như hoa đâm ra trong khoảng những khối u đó. Hoa trổ tương đối dày và khít thành từng chùm đặc nghẹt. Có nơi còn gọi nó là mai tỳ bà hay mai vương.
6. Mai hương, mai thơm hay mai ngự
Là một loại mai vàng có mùi hương rất thơm, thơm hơn hồ hết các loài mai khác. Mùi hương của nó rất đặc trưng và có nhẽ là nồng thắm hơn hầu hết các loài mai nên nó được gọi là mai hương cho đúng với thuộc tính đặc biệt của loài mai vàng năm cánh này. Ở Bến Tre cũng có không ít loại mai này mà người dân ở đây gọi nó bằng một cái tên rất miệt vườn là “Mai thơm” vì nó rất thơm, thơm hơn những loại mai bình thường mà người dân Nam bộ thường gặp. Ở Huế, loại mai này còn được gọi là “Mai ngự” vì nó được trồng trong cung và rất được tôn thất mến chuộng dùng làm quà biếu cao cấp nên nó gọi là “Mai ngự”.
7. Mai châu (Mai trâu)
Là một loại mai trổ hoa rất to, hoa của loài mai này lớn một cách lạ thường, cánh lớn và rộng, màu vàng rực. Mỗi đóa hoa có các con phố kính hơn 5cm nên người ta gọi nó là mai trâu mà người Nam bộ thường đọc trại ra thành “mai châu”.
8. Mai liễu
Là một loại mai có cành rất mềm và rũ xuống như cây liễu, hoa trổ rất ít. Lá mai nhọn và nhỏ, thon dài như lá liểu nên được gọi là mai liễu.
9. Mai nhọn
Là một loại mai có lá dài và nhọn, nụ hoa và cánh hoa cũng có hình dạng như vậy.
10. Mai Cà Ná
Là loại mai đặc biệt mọc tại lãnh hải Cà Ná thuộc tỉnh giấc Ninh Thuận. Loài mai này có thân nhỏ, èo uột, cành rất giòn, dễ gẫy, lá hình bầu dục, trót lọt láng và có răng cưa quang quẻ rìa lá. Người dân ở đây gọi nó là mai rừng Cà Ná.
11. Mai Vĩnh Hảo
Vào địa phận của tỉnh Bình Thuận, thuộc thị xã Tuy Phong, thị trấn Vĩnh Hảo, nơi có nguồn nước khoáng trùng hợp nổi tiếng nhất Việt Nam là “Nước khoáng Vĩnh Hảo” thì có một loại mai vàng nữa cũng là loài đặc biệt của vùng này, không khác gì mấy so với mai Cà Ná nhưng nó lại được người dân ở đây đặt cho cái tên theo địa danh nơi nó đang sống là “Mai Vĩnh Hảo”. Mai Vĩnh Hảo có thân cứng, lá nhỏ, hoa lớn và phẳng, đặc trưng rất lâu tàn.
12. Mai tứ quý
Loài mai đặc thù của vùng Nam bộ. Mai này cũng trổ hoa vàng nhưng sau khi cánh hoa rụng đi thì đài hoa còn lại năm cánh màu đỏ với nhụy hoa và ba hạt màu đen như hạt đậu. Năm cánh hoa màu đỏ cũng tròn trĩnh và giống hình một đóa hoa mai. Do tính chất nở 2 lần trên cùng một đóa nên người ta còn gọi mai tứ quý là nhị độ mai. Mai này trổ bông loáng thoáng quành năm nên mới gọi là mai tứ quý (xuân, hạ, thu, đông đều trổ hoa). Mai tứ quý thân sần sùi và đen. Có cây tăng trưởng rất lớn và cao nhưng phần nhiều là những cây lâu năm. Càng lâu năm nhìn nó càng cổ kính và cứng cáp.
13. Mai giảo
Là loại mai có không ít cánh được ghép lại trong khoảng đa dạng loại mai khác nhau trên cùng một cây mai. Mai giảo lấy gốc mai vàng làm chủ đạo sau đấy ghép nhánh của các loại mai khác vào để tạo ra đời một loại mai có rất nhiều cánh, rất nhiều màu sắc trên cùng một cây mai. Loại này là loại mai nhân tạo mà chúng ta thấy không ít hiện nay trên thị phần mai Tết.
Sáu loại mai trên toàn cầu
1. Mai vàng Campuchia (Mai Cao Miên)
Tên khoa học là Ochna integerrima. Hoa mai có trong khoảng 5 đến 9 cánh, lúc nở ra thì úp ngược về phía cuống hoa chứ ko xòe rộng như các loại mai Việt Nam, hoa có màu vàng tái (sậm phần lớn cam đậm). Loại mai này cũng có thấy ở Việt Nam, phần lớn mọc trong những khu rừng thuộc miền Nam và miền Trung. Chúng là loài cây hoang dã cũng có phân bố ở 1 vài nơi có cồn cát nóng và ven những bờ sông râm mát. Mai vàng Campuchia thuộc dạng thân gỗ, nhánh gầy, mảnh và dài. Lá đơn màu xanh nhạt và bóng mọc thưa trên cành, mép lá có răng cưa nhỏ. Hoa mọc ra trong khoảng nách lá thành chùm, cuống hoa ngắn, đài hoa xanh bóng và không che kín nụ. Ở Việt nam người ta thường sử dụng loại mai này để ghép thành mai giảo vì nó có khả năng tăng cường số lượng cánh lên rất cao. Không chỉ thế mà hiện nay nó còn có ba màu do lai ghép là đỏ, vàng và trắng.
hai. Mai vàng Nam Phi
Có khoảng 12 loài mai thuộc chi họ mai Ochna gồm những dạng cây lẽ và cây mọc thành bụi. Trong ấy có 2 loài rộng rãi là Ochna pretoriensis và Ochna pulchra. 2 Loài này xuất hiện không ít tại vùng Koppie. Loài Ochna pulchra cao khoảng 3 7m, vỏ cây thường có hiện tượng tróc ra, lá dễ rụng. Chúng mọc hoang dại ở rừng, vỏ cây màu xám, xù xì ở gốc, nhánh thân cây bị tróc vỏ màu kem nhạt. Mai Châu Phi có 2 màu vàng và hồng. Hơn thế nữa ở Nam Phi còn có các loại mai rất giống với mai tứ quý tại Việt Nam.
3. Mai vàng Myanmar (Miến Điện)
Ở quốc gia Phật giáo này có một loài mai mang tên khoa học là Ochna serrulata gần giống với loại mai Nam Phi. Tuy thế hình thức của hoa mai có khác chút ít ở chổ cánh hoa bẹt hoặc có bầu noãn đỏ như mai tứ quý, tồn tại rất lâu trước khi rụng hoàn toàn.
4. Mai vàng Indonesia
Có tên kỹ thuật là Ochna kirkii Oliv, Ochna serrulata. Đông đảo đều có xuất xứ từ Châu Phi, tuy nhiên do địa chất khác nhau nên chúng có ngoài mặt lớn hơn mai Châu Phi. Có loài nở hoa vào mùa xuân, mùa hè hoặc nở cả bốn mùa như mai tứ quý.
5. Mai vàng Madagascar
Là loại mai có tên kỹ thuật là Ochna greveanum với năm cánh tròn trĩnh, dúm bèo theo rìa cánh giống như mai cánh dúm ở Việt Nam, lá mai dài và rũ xuống từng chùm.
6. Mai vàng Châu Phi
Khác với mai vàng Nam Phi vì nó giống mai vàng năm cánh của Việt Nam nhưng có tên khoa học khác là Ochna thomasiana thuộc dạng cây bụi, lá hình oval, đầu lá nhọn và bén dài khoảng 10cm. Hoa rộ trên cành vào mùa xuân, nhưng đôi khi lại ngẫu nhiên nở hoa vào mùa hè nhưng số lượng ít hơn. Cánh hoa thanh mảnh dài khoảng 2cm, đài hoa bung ra rộng và trở nên màu đỏ tía, bên trong có trái non màu xanh giống như mai tứ quý của Việt Nam.
ấy là 19 loại mai của Việt Nam và toàn cầu, trong đấy có loài thứ 4, thứ 6 và thứ 7 đã mang bảy cái tên không giống nhau theo cách gọi của dân gian Việt Nam. Nếu như tính tổng cộng là có 24 loài mai trên khắp thế giới hoặc có thể còn rộng rãi hơn nữa. Đúng là hoa mai rất rộng rãi và phong phú chủng loại. Ở Trung cộng họ vẫn gọi cây đào là cây mai vì có phổ quát loại rất giống hoa mai nhất là hồng đào và bạch đào mà họ hay gọi là hồng mai và bạch mai, nhưng cánh mai tròn và nhỏ như cánh đào, nhụy hoa rậm và dày, thân cây y chang như cây đào nên thường gọi là đào chứ không gọi là mai.
Ngày Tết trò chuyện về sự phong phú của cây mai để chúng ta cùng nhau Đánh giá về loại hoa đặc thù của mùa xuân này. Hoa mai là tượng trưng của sự may mắn, tốt đẹp, một sự bắt đầu tuyệt vời và hưng vượng vượng cho một năm mới. Hoa mai còn có ý nghĩa xua đuổi những điều xấu xa, ko tốt đẹp cho một năm luôn được bình an, hanh thông và phát đạt.
công năng của hoa mai đối với đời sống
Theo dược học cổ truyền, hoa mai thường được sử dụng để chữa các chứng bệnh như sốt cao phiền khát, tức ngực, ho, hầu họng sưng đau, bỏng, lao hạch, chán ăn, chóng mặt…
Tết tới xuân về, dẫu tiết trời giá rét, hoa mai vẫn nở trắng một màu như tuyết. Ở vùng cao, mai mọc thành rừng, nên tới mùa hoa mai nở, từng mảng trắng xóa xen giữa màu xanh của rừng núi tạo nên cảnh sắc trông thật trữ tình. Thi nhân yêu hoa mai đã đành, người thầy thuốc cũng mến chuộng loài hoa này.
Theo dược học cổ truyền, hoa mai vị ngọt hơi đắng, tính ấm, ko độc...
Trong thành phần hóa học, hoa mai đựng phổ thông tinh dầu như cineole, borneol, linalool, benzyl alcohol, farnesol, terpineol, indol… và một vài chất khác như meratin, calycanthine, caroten… Nghiên cứu hiện đại, tân tiến cho thấy, hoa mai có tác dụng thúc đẩy bài tiết dịch mật, ức chế một vài loại vi khuẩn như coli, trực khuẩn lỵ, trực khuẩn thương hàn, phẩy khuẩn tả, trực khuẩn lao…
Theo dược khoa cổ truyền, hoa mai vị ngọt tương đối đắng, tính ấm, ko độc, có công dụng giải thử sinh tân, khai vị tán uất, hóa đàm, thường được sử dụng để chữa các chứng bệnh như sốt cao phiền khát, tức ngực, ho, hầu họng sưng đau, bỏng, lao hạch, chán ăn, chóng mặt… Các y thư cổ như Bản thảo cương mục, Bản thảo nguyên thủy, Bách thảo kính, Bản thảo tái tân, Cương mục thập di, Thực vật nghi kỵ… đều đã ghi lại phổ biến phương thuốc có sử dụng hoa mai với những kiến giải khá sâu sắc. Có thể dẫn ra 1 số thí dụ cụ thể như sau:
Trúng thử gây tâm phiền, đau dầu, chóng mặt: (1) Hoa mai 9g sắc uống hoặc kết hợp hoa mai với hoa biển đậu và lá sen tươi lượng vừa đủ, sắc uống. (2) Hoa mai 15g, hoa cúc trắng 15g, huê hồng 15g, hãm uống thay trà.
cải thiện áp huyết, cơn đau thắt ngực: Hoa mai 3g, thảo quyết minh 10g hãm với nước sôi trong bình kín, sau 15phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày.
Mai hạch khí, đau bao tử, viêm gan và xơ gan mức độ nhẹ: Hoa mai 5g đem ninh với 100g gạo tẻ thành cháo, chế thêm các con phố trắng, chia ăn vài lần trong ngày. Mai hạch khí là chứng nhận thấy trong họng có vật gì đấy gây bế tắc, thổ không ra, nuốt không trôi nhưng ko gây trở ngại cho việc ăn uống. Với chứng bệnh này người ta còn sử dụng hoa mai 12g, hoa quế 3g, trà 20g, ba thứ trộn đều, chia làm 3 lần hãm uống thay trà.
Chướng bụng, đầy hơi: Hoa mai 10g, mộc hương 10g, hương phụ 15g, sắc uống.
Đau bụng do lạnh: Hoa mai và chu sa liên lượng bằng nhau, sấy khô, tán bột, uống mỗi lần 3 – 6g với rượu nhạt.
Nấc: Hoa mai 5g, tai hồng (thị đế) 5 cái, gừng tươi 3 lát, gạo tẻ 100g. Đem gừng tươi và thị đế sắc kĩ lấy nước, bỏ bã rồi cho gạo vào nấu thành cháo, khi chín thì cho hoa mai vào, đun sôi vài dạo là được, chia ăn vài lần trong ngày.
Nôn: Hoa mai 5g, nước cốt gừng tươi 5ml. Đem hoa mai hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 15 phút là sử dụng được, chắt ra hòa thêm nước gừng tươi rồi uống, mỗi ngày dùng hai thang.
Viêm họng, viêm amydal cấp tính: (1) Hoa mai 6g, huyền sâm 9g, bản lam căn 9g, sắc uống. (2) Hoa mai 15g, kim ngân hoa 15g, thạch cao 15g, huyền sâm 9g, sắc uống. (3) Hoa mai 9g hãm với nước sôi trong bình kín, uống thay trà trong ngày.
Viêm họng mãn tính: (1) Hoa mai 6g, hoa dành dành 5g, trà 20g. Ba thứ trộn lẫn chia làm hai lần hãm với nước sôi uống thay trà, mỗi ngày 1 thang. (2) Hoa mai và hoa ngọc thoa lượng vừa đủ đem nấu với 60g gạo tẻ thành cháo, chia ăn vài lần trong ngày, mỗi ngày 1 thang.
Ho dai dẳng: (1) Hoa mai 9g hãm uống thay trà trong ngày. (2) Hoa mai 10g, khoản đông hoa 10g, gạo tẻ 60g, rất nhiều đem ninh thành cháo, chế thêm một tẹo mật ong, chia ăn vài lần trong ngày.
Mất nước nhiều do thử nhiệt gây phiền khát, tức ngực: Hoa mai 10g, lá sâm 10g, cam thảo 10g, mạch môn 15g, hoắc hương 6g, sắc uống.
Chứng chán ăn do thử nhiệt: Hoa mai 10g, lá sen 50g, hãm với nước sôi uống thay trà trong ngày.
Tức ngực, khó thở: Hoa mai 10g, đan sâm 10g, qua lâu 15g, sắc uống trong ngày.
Đau khớp do phong thấp: Hoa mai 9g, thạch nam đằng 9g, thố nhĩ phong 9g, đam ngâm với 200ml rượu, mỗi lần uống 30 – 50ml.
Viêm kết mạc cấp tính: Hoa mai 6g, cúc hoa 9g sắc kĩ rồi hòa thêm một tẹo mật ong uống.
tổn thương do trơ trọi đả: Hoa mai 9g, lá liễu 9g, quá sơn long 9g, đem ngâm với 250ml rượu trắng, mỗi ngày uống hai lần, mỗi lần 50ml.
Vết thương chảy máu: Hoa mai 10g đem sao tồn tính rồi nhất trí bột rắc vào vết thương.
Viêm loét môi và niêm mạc miệng: Hoa mai tươi lượng vừa đủ đem giã nát với các con phố trắng rồi vắt lấy nước bôi vào thương tổn.
Loa lịch (lao hạch): Hoa mai lượng vừa đủ, trứng gà 1 quả. Sử dụng dao nhọn chích một lỗ nhỏ ở quả trứng rồi nhét hoa mai vào trong, đem hấp cách thủy cho chín rồi ăn, mỗi ngày 1 lần, 7 lần là một liệu trình.
Viêm da lở loét: Hoa mai 6g đem ngâm với dầu lạc hoặc dầu vừng, sau hai tuần thì sử dụng được, bôi vào thương tổn mỗi ngày 2 lần.
Bỏng: Hoa mai lượng vừa đủ ngâm với dầu trà rồi bôi vào vùng bị bỏng.
Ngoài ra, trong ẩm thực cựu truyền, hoa mai còn được cổ nhân sử dụng như một loại thực phẩm để chế thành những món ăn có công năng tốt cho sức khỏe cường thân cộng với các loại thực phẩm khác như thịt lợn, giết thịt dê, hải sâm, trứng gà, cá gáy, nấm hương… như vậy, với vẻ đẹp thanh tao và hương thơm thanh khiết của mình, hoa mai không chỉ có trị giá thẩm mỹ sâu sắc mà còn là một vị thuốc hay và một loại thực phẩm độc đáo.
kỹ thuật trồng và chăm nom hoa mai
Việc ứng dụng công nghệ trồng cây đúng sẽ đạt được những bông hoa mai đẹp mắt.
Đất trồng mai trên vườn, líp: Cây mai tăng trưởng tốt trên đất thịt nhẹ có phổ biến chất hữu cơ, đất ko chua, không bị nhiễm phèn, mặn hoặc các hoá chất độc hại.
Đất trồng mai trong chậu: Cần chọn loại đất có các tính chất như trên, trộn theo tỷ lệ khoảng 70-80% đất và 20-30% phân hữu cơ hoai mục theo trọng lượng đất trong chậu. phương pháp bón phân.
Mai trồng trên vườn, líp
Tỉa cành: Người trồng nên tỉa cây mai chậm nhất cho đến 20 âm lịch.Tuỳ theo hình dạng của cây, người chơi hoa nên có cách tỉa thích hợp nhưng thường nhật các cây mai tỉa theo dáng cây thông (trên ngắn – dưới dài để cây có hình nón), thông thường các cành được cắt tỉa đi một phần ba.
Bón lót lúc trồng: Phân chuồng (phân trâu bò, tro trấu, xơ dừa…) đã qua ủ khoảng 5-10kg/gốc, vôi bột khoảng 200-300gr/gốc + 50-100gr lân đầu trâu. Phần nhiều lượng phân này được trộn đều trong hố (hoặc rãnh) trước khi trồng cây con.
Bón thúc: Sau khi trồng khoảng 10-15 ngày, cây bắt đầu ra rễ mới, dùng phân NPK 20-20-15+TE đầu trâu hoà loãng để tưới, lượng phân dùng trong khoảng 50-100 gr/10-15 lít nước, khoảng 20-30 ngày tưới 1 lần. Khi mai đã lớn, lượng phân bón cũng được cải thiện dần và khoảng cách các lần bón phân xa hơn. Loại phân bón qua đất phù hợp cho mai là NPK 20-20-15+TE hoặc NPK 16-12-8-11+TE. Lượng bón khoảng 20 -50 gr/gốc/lần bón, cách khoảng 1-2 tháng bón 1 lần.
lúc mai đã cho hoa ổn định: Hàng năm cần bón bổ sung phân hữu cơ trong khoảng 5-10kg/gốc. Dùng loại phân NPK 20-20-15+TE hoặc NPK 16-12-8-11+TE bón mỗi năm khoảng 3-4 lần với lượng bón như trên vào các đợt: sau lúc tàn hoa (sau dịp Tết), cắt tỉa cành; đầu mùa mưa; giữa mùa mưa và trước khi mai nở hoa khoảng 1-1,5 tháng. Cần bón phân theo hốc, theo rãnh sâu trong khoảng 5-7cm theo tàn lá của cây, bón vào vùng có phổ quát rễ non phát triển, sau đó lấp đất, giữ ẩm vào mùa khô, thoáng gốc vào mùa mưa.
Mai trồng trong chậu
Mai được đem ra ngoài càng sớm càng tốt, phải đặt cây nơi có bóng râm để lá không bị cháy lúc xúc tiếp trực tiếp với ánh sáng mặt trời. Người trồng cần cắt bỏ hầu hết các hoa để cây ko mất dinh dưỡng nuôi đài hoa tạo hạt, để lại một số lá.
Bón phân: Lượng bón có thể đổi thay trong khoảng 20-50gr/chậu cho 1 lần bón. Với chậu to, cây mai phổ thông tuổi có thể bón khoảng 50-80gr/chậu. Tạo rãnh tiếp giáp với thành chậu, sâu khoảng 3-5cm, rải phân đều vào rãnh, lấp đất và tưới đủ ẩm. Giảm thiểu làm đứt rễ, cây dễ bị nhiễm bệnh qua vết thương. Ví như có điều kiện, hàng năm vào đầu mùa mưa nên thay đất trong chậu bằng đất mới tơi xốp, hoặc bổ sung phân hữu cơ đã hoai mục, lượng bón trong khoảng 2-3kg/chậu.
dùng phân bón lá: Ngoài việc sử dụng phân bón qua đất, phân bón lá có vai trò quan yếu trong việc kích thích sinh trưởng và phát triển, bổ sung các dưỡng chất thiếu hụt trong đất, kích thích ra rễ, ra lá, ra hoa theo mong muốn của người chơi mai. kỹ thuật trồng và săn sóc hoa mai cho ngày tết
một số loại phân bón lá được nhà vườn quan tâm ấy là: Phân bón lá đầu trâu 501 thúc ra chồi ra lá, đầu trâu 701 thúc ra bông và đầu trâu 901 có tác dụng dưỡng bông giúp bông lâu tàn và có màu nhan sắc. Tương tự lực lượng sản phẩm phân bón lá đầu trâu 005, đầu trâu 007, đầu trâu 009 cũng có hoàn hảo cao đối với số đông các loại mai cảnh.
khi tiết trời đã điểm xuân, những cơn mưa phơ phất mang hơi ấm của năm mới khởi đầu tưới xuống, cũng là khi mai vàng khoe sắc báo hiệu mùa xuân về. Xuân bình anh, may mắn và người người đều nở nụ cười trên môi, chào đón một năm mới an lành, hạnh phúc. Miền Bắc có hoa đào thì miền Nam cũng trẻ ranh sắc mai. Hoa mai đã như một biểu trưng ngày tết, báo hiệu những điều may mắn, thiện lành.